Trang

Thứ Tư, 16 tháng 11, 2011

Thứ Tư, 9 tháng 11, 2011

NĐ 34/2010/ND-CP ngày 02/4/2010

NGHỊ ĐỊNH: QUY ĐỊNH XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Chương I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
1. Nghị định này quy định về hành vi vi phạm, hình thức và mức xử phạt, thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
2. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ là những hành vi của cá nhân, tổ chức vi phạm quy định của pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ một cách cố ý hoặc vô ý mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính, bao gồm:

NGHỊ ĐỊNH SỐ 23/2009/NĐ-CP NGÀY 27/2/2009

NGHỊ ĐỊNH
Về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng;
kinh doanh bất động sản; khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý phát triển nhà và công sở
_______

Thứ Tư, 26 tháng 10, 2011

NGHỊ ĐỊNH SỐ 85/2009/NĐ-CP NGÀY 15/10/2009


CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật Đấu thầu số 61/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005, Luật Xây dựng số 16/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003 của Quốc hội;
Căn cứ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản số 38/2009/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2009 của Quốc hội;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ trưởng Bộ Xây dựng,

Thứ Tư, 28 tháng 9, 2011

Thông tư 86/2011/TT-BTC v/v thanh toán vốn NSNN


    BỘ TÀI CHÍNH                  CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT  NAM

Số:  86/2011/TT-BTC                            

                           Hà Nội, ngày 17 tháng 6 năm 2011    

THÔNG TƯ

Quy định về quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư thuộc nguồn ngân sách nhà nước

Chủ Nhật, 22 tháng 5, 2011

linh tinh


Hủ nho lại đòi nho nhe ngóc đầu

Nguyễn Hoàng Đức

1- Hình ảnh mẫu của hủ nho trong lịch sử là gì? Đó là “học nhi ưu tắc sĩ”, tức học giỏi để làm quan. Thèm làm quan đến độ, lê la vào cung điện, đứng cách vua chúa cả vài chục mét, xúm đông xúm đỏ xem hai con dế bé tẹo như hai đốt ngón tay, chọi nhau, rồi hò la tán thưởng nịnh bợ vua chúa. Thật là không có chút nào liêm sỉ!
2- Cụ thể trường hợp của Từ Hi Thái Hậu là mẫu hậu quốc gia, vậy mà thấy hai con nô tì chải đầu giống mình, liền lệnh lôi ra chém. Than ôi, mẫu hậu quốc gia mà còn so đọ ghen tức với cả đứa nô tì vì mái tóc. Con người hủ nho thấp hèn đến thế là cùng!
3- Tổng thống dân quốc Viên Thế Khải sau khi để cho các cận thần vào triều được đứng thẳng người không phải quì như chó nữa, rồi còn đưa tay bắt mọi người tưởng sẽ được hưởng ánh sáng canh tân của nền dân chủ , cộng hòa, nào ngờ, về già y đóng cửa, cùng vợ đem long bào ra mặc, để thỏa mặc cảm khát vọng muốn làm vua. Trời ơi đấy có phải cái căn gốc của hạng nho giáo không gượng làm người tiến bộ được?
4- Thấy quan quân đi qua, một vài kẻ từ trong núi chui ra nói vài lời có cánh. Quan quân đi tìm muốn thỉnh thị hẳn hoi, nhưng mấy người này liển lủi mất dạng. Người ta chỉ còn cách than: đó là mầy người ở ẩn! Than ôi, ăn nói bâng quơ thì còn được vài câu rơi vãi hay ho, mời nói hẳn hoi thì không nói được câu ra hồn! Vì sao? Vì sợ trách nhiệm! Chơi cờ với vua còn không dám thắng, nói gì đến việc đòi đưa ra ý kiến kinh bang tế thế?! Đã ẩn lên núi nhưng cái bả công danh vẫn cám dỗ quá nên đòi lân la nói mấy câu nửa dơi nửa chuột. Than ôi cái ham hố của đám hủ nho!
5- Nhà triết học Pháp Francois Julien, chuyên gia hàng đầu về Trung Quốc phát hiện, học vấn Nho giáo thiên về “cái nhạt”, tức là nhạt nhẽo, làm sao nói mà không nói, nói ẩn để không bị lộ mình, mong cầu toàn cho bản thân. Than ôi, lúc nào cũng lo thủ thế giữ mình, thì làm gì có được cái gì hay ho?!
6- Học giả lớn Lâm Ngữ Đường, người Trung Quốc có nói, Trung Quốc không hề có triết học và khoa học, vì người Trung Quốc không biết tôn trọng cái phổ quát thì làm sao có khoa học và triết học được.
7- Triết gia Hegel nói : "Dân tộc Trung Quốc dù lớn, nhưng không có sử thi, nên không phải là dân tộc có tâm hồn lớn”. Vì câu nói này, trong nhiều năm gần đây, giới văn hóa của Trung quốc lọ mọ đi tìm khắp nơi, nhưng vẫn chưa tìm được sử thi nào để cứu vãn độ lớn cho dân tộc cả.
8- Mới đây, khi người ta bàn đến sự nổi lên của Trung Quốc, một số chuyên gia đã thẳng thắn nhận định: Trung Quốc không bao giờ lãnh đạo được thế giới, vì họ không hề có hệ thống tư tưởng (than ôi lúc nào cũng đòi sống nhạt lấy đâu ra tư tưởng?!)
9- Trong vấn đề giải quyết biển Đông mới đây, khi các nước đòi giải quyết đa phương, nhưng Trung Quốc chỉ muốn giải quyết song phương. Than ôi một nước lớn gấp hai chục lần các nước xung quanh như vậy, mà giải quyết đòi song phương, thì ra họ chưa bao giờ biết đến tinh thần phổ quát sẽ là tiền thân của công lý?! (Thật đúng như nhận xét của Lâm Ngữ Đường về dân tộc mình).
10- Người Nhật Bản khinh bỉ nho giáo đến mức họ còn đề ra chủ thuyết “Thoát Á luận”, nghĩa là muốn xã hội phát triển thì phải ly khai những thứ dây cà dây muống của đám hủ nho.
11- Cái đầu tầu nho học đã vậy, mấy chú học lỏm ti toe ở Việt Nam sẽ thế nào? Chúng ta thử đọc : “Trì trệ và bất lực"
(Lương Đức Thiệp, Việt Nam tiến hóa sử, năm 1944)
Bị ý thức hệ nho giáo bảo thủ lung lạc, bị nguỵ thuyết của bọn Tống nho đưa lạc nẻo, bị chế độ thi cử chi phối, đẳng cấp nho sĩ Việt Nam không còn một chút hoạt lực(1) nào, không còn được một tính cách cấp tiến nào nữa. Bởi vậy họ đã chống tiến hoá chống cải cách. Phụ hoạ với triều định, họ đã lấy cái học bã giả(2) của Tống nho dựng một bức trường thành ngăn các trào lưu triết học khác không cho tràn tới địa hạt tri thức do họ giữ đặc quyền.
…"Thiếu độc lập về tư tưởng, hoàn toàn phục tùng cổ nhân Trung Hoa về cả mặt tình cảm, quá câu nệ về hình thức thơ Tàu, đẳng cấp Nho sĩ Vệt Nam chỉ sản xuất ra được những lối thơ nghèo nàn. Nhiều tập thơ mài giũa công phu nhưng không chút sinh khí.
Qua ngay hình thức của thơ, ta cũng thấy rõ tinh thần bảo thủ của đẳng cấp Nho sĩ và sự bất lực của đẳng cấp này trong mọi công cuộc sáng tạo xã hội có tính chất cấp tiến.
(1) sức sống.
(2) thường nói bã chả, với nghĩa cái phần dư thừa sau khi lấy hết tính chất và nát ngấu nhão nhoẹt.
(Nguồn: Thể thao văn hóa”)
Than ôi, Nho giáo bị coi là thứ bã chả, quả là thứ nước đờm nước dãi và nước thải! Thế mà vẫn cứ ti toe khoe chữ!
12- Nhà phê bình Hoài Thanh nói: Nho học chỉ là cái máy để đúc ra hàng vạn bài thơ dở. (tất nhiên là không thể nào viết được tiểu luận, chỉ bình vớ vẩn nhăng cuội).
13- Thời thơ Mới, có nhiều nhà thơ giỏi cả chữ Tầu cả chữ Tây, liền lớn tiếng thách thức bọn hủ nho rằng có giỏi thì dời núi xuống đây đọ làm thơ, nhưng bọn này im phăng phắc, chắc lại đang mỉm cười trên núi rằng “người quân tử không cần đấu?”
14- Câu của Khổng Tử là “Hương nguyên đức chi tặc giã”. Học trò hỏi, ông không trả lời, vì cách đây gần 2500 năm, ở Trung Quốc có 99% là nông dân, chẳng lẽ lại nói toẹt vào mặt họ : nhà quê là hại đức. Giờ nếu dịch là “ngụy quân tử là hại đức”, chẳng lẽ Khổng Tử lại dốt như vậy? vì sao:
- Ngụy quân tử hiển nhiên là kẻ lộ mặt xấu, việc gì phải nói ngụy quân tử là hại đức nữa. Nói thế có khác gì bảo “đồ giả là xấu!” hoặc đơn giản hơn, ai lại nói, phân là thối bao giờ. Than ôi, người Việt nói “chữ thầy trả thầy”. Có nghĩa học thế là phí cơm toi. Học thì phải biết suy luận, tại sao cứ chờ thầy bảo rồi mới dám nghĩ nhất nhất như vậy?!
Cái sở trường bé nhỏ của phương pháp hủ nho luôn luôn là tầm chương trích cú, không bao giờ hiểu cái lõi, chỉ đi tra cứu cái mẽ ngoài. Lúc nào cũng sợ hãi nói nước đôi, thì làm sao có thể nhận ra nội dung của sự việc?!
Tôi cũng là một người theo “Thoát Á luận”, trong mắt tôi, tôi không coi bọn hủ nho ra gì cả. Thời thơ Mới, đã có người thách thức đám hủ nho, giờ tôi cũng muốn thách thức đám này. Về toàn thể mặt trận vĩ mô đại cục, đám hủ nho đã phơi bụng trắng xóa rồi nay đòi cơ hội lê la vào lịch sử để kiếm chút hư danh ư?! Ở Việt nam, theo các thống kê, thì chỉ có hơn mười người viết được tiểu luận về văn học và xã hội học, trong số này hình như đám hủ nho không đủ tài. Làm một cái máy bay khó muôn vạn lần, nhưng để phá hoại nó chỉ cần ném vào một nắm cát. Giờ mời những đại biểu cao nhất của hủ nho, thôi thì cả túc nho cũng được, muốn tranh luận với tôi tử tế, thì xin viết một tiểu luận khoảng 1500 đến 2000 chữ cho. Lúc đó tôi cũng sẽ tranh luận bằng tiểu luận. Còn day dứt với commnet ấy à, nó chưa phải loại hình nào cả! Trước hết xin bàn về hai từ “vô lại” thôi. Và hãy phê bình thẳng vào bài hai trăm chữ “về sự sợ hãi” của Ngô Bảo Châu, xem có đủ trí thức và can đảm không?! Hãy cấu tự và bàn hẳn hoi đi, xem sở tài được bao nhiêu?!
Nhưng tôi cũng thú nhận, để chiến thắng hủ nho thật thiên khó vạn nan, vì Ngô Bảo Châu đoạt giải toán học hàng đầu thế giới, được cả Tổng thống Pháp đọc lời chúc mừng, mà có khối kẻ còn coi như không có, thì tôi chẳng là cái gì để được chấp nhận cả. Ông Bá Dương trong cuốn “Người Trung Quốc xấu xí” có nói: người Trung Quốc rất khó khăn, dường như chẳng bao giờ biết xin lỗi. Cái văn hóa hủ nho là thứ cấu kết lạc hậu nhất trong lịch sử, thật là khó mà nghe được lời chấp nhận thua cuộc hay xin lỗi của họ.
Dù vậy, tôi đã ném găng cho đám hủ nho và xin sẵn sàng vào cuộc!
Nguyễn Hoàng Đức
Sinh nhật 25/04/2011

Thứ Hai, 4 tháng 4, 2011

Vẻ đẹp viên mãn.

bao giờ ?

Xây và phá

Phùng Hồ Hải.
—————————–
Người Việt, với lịch sử 2000 năm dựng nước và giữ nước không để lại được một công trình kiến trúc nào khả dĩ. Công trình kiến trúc cổ có giá trị duy nhất ở Việt Nam là Tháp Chăm. Trong thực tế, các vua chúa Việt đã không đủ sa hoa để có thể xây dựng được những công trình “để đời”, ngược lại, nền văn minh Việt được tạo thành từ văn minh làng xã. Nhưng ngay cả cái văn minh làng xã đó ngày nay cũng khó mà tìm được. Lịch sử Việt Nam chứng kiến sự phá hoại không chỉ của các công trình kiến trúc mà cả của nền văn hóa phi vật thể. Người Việt hiện nay mất gốc. Và chúng ta đang loay hoay đi tìm gốc, của mình hoặc của người khác.
Theo sử sách, thì sự phá hoại về kiến trúc và văn hóa lớn nhất của người nước ngoài là bởi giặc Minh vào đầu thế kỷ 15. Sau đó chỉ có chúng ta phá của ta. Điển hình là việc tàn phá đền chùa vào những năm 50 thế kỷ 20, cùng với nó là toàn bộ hệ thống tâm linh trong các làng xã Việt ở miền Bắc. Thay vào đó, nhiều người tin tưởng vào một Thiên đường Cộng sản. Tất cả những người sinh ra ở miền Bắc từ những năm 1940 trở về sau được hưởng một nền giáo dục vô thần. Các hiện tượng thiên nhiên được giải thích trên cơ sở khoa học. Thần, Phật, Bụt, Chúa, Ngọc Hoàng, Thượng Đế đều thuộc về truyện cổ tích. Niềm tin, thứ mà bất kỳ một người nào trên thế giới này cũng cần, bấy giờ là Niềm tin Cộng sản – tới một ngày nào đó, không cần phải chết, họ cũng được lên Thiên đường, Thiên đường Cộng sản, ở đó người ta làm theo khả năng và hưởng theo nhu cầu.
Tuy nhiên, với sự sụp đổ của phe XHCN thì Thiên đường Cộng sản ngày càng xa vời. Niềm tin Cộng sản cũng ngày càng mai một. Tới giờ thì có thể khẳng định không còn ai có niềm tin đó nữa, trừ số ít người trên 80 tuổi. Con người không thể sống thiếu niềm tin. Sau một thời gian dài tin tưởng vào những giá trị nhập khẩu, chúng ta quay trở lại tìm về cội nguồn. Tôi không am hiểu lịch sử Việt Nam lắm nhưng quả thật tôi không tìm thấy trong sách sử đã đọc nào một tư liệu nào về một thời kỳ thay đổi tư tưởng giống như những gì đang xảy ra ở Việt Nam trong khoảng hơn 20 năm lại đây. Người ta tìm về cội nguồn bằng cách xây lại những đền chùa đã bị phá hủy, tân trang lại những đền chùa mục nát, rồi xây thêm những đền chùa hoành tráng, to chưa từng có trong lịch sử nước Việt. Tăng lữ ngày nay giàu hơn tăng lữ cuối thời Trần, thời kỳ thịnh hành và bê bối nhất của đạo Phật ở Việt Nam. Người ta cũng cố gắng xây dựng lại nền văn hóa làng xã, với những lễ hội cổ truyền đã bị quên lãng từ hơn năm chục năm. Dường như tất cả những thành quả về văn hóa và tư tưởng mà cuộc cách mạng XHCN xây dựng được trong mấy chục năm trời đã bị phá qua đêm. Người ta thấy cả những những nhà quản lý, lãnh đạo cao cấp, lên chùa, lên đền cầu tài cầu lộc.
Kể cũng khó mà tin được rằng có những giáo sư, tiến sỹ triết học Mac-xit lại đi tin vào lời phán của những bà đồng, bà cốt, của những “nhà ngoại cảm”. Tôi đọc Đại việt Sử ký Toàn thư không thấy có lời nào viết về những nhà ngoại cảm có khả năng tìm mộ mặc dù dân tộc ta trong lịch sử cũng chinh chiến liên miên. Có lẽ “Nhà ngoại cảm” là sản phẩm “made in Vietnam” điển hình nhất của thời kỳ hậu 90.
Xây và Phá. Xây bao giờ cũng đi đôi với Phá. Khó là ở chỗ phá cái đáng phá và xây cái nên xây. Chúng ta phải giữ gìn và phát triển những phẩm chất tốt đẹp của con người XHCN, sống và làm việc cho sự phồn vinh của đất nước trong đó có chính mình và gia đình mình, phá đi những tư tưởng ẫu trĩ về cách mạng vô sản, về sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Chúng ta phải xây dựng lại những giá trị truyền thống của gia đình, họ tộc, những quy tắc ứng xử xã hội “kính trên nhường dưới”… Nhưng việc xây dựng đó phải được thực hiện thông qua giáo dục, nâng cao dân trí, tăng cường luật pháp chứ không phải bằng cách mô phỏng những lễ và hội ngày xưa.
Một người Việt trong Thiên niên kỷ mới cần nhìn đền Bà chúa Kho với con mắt của một người du lịch, khám phá, chứ không phải vào đó xì xụp khấn vái, vay tiền đầu năm, giả tiền cuối năm.

Hà Nội, Xuân 2011.